Hôm nay TD xin phép đăng bài này để giải đáp câu hỏi của một số bạn đã nhắn tin, muốn tìm hiểu về các phép đối trong hai cặp thực- luận của bài TNBC đường luật. Theo “Thi pháp thơ Đường” của Quách Tấn, cũng như một số tài liệu khác, TD thấy trong thơ đường luật, người chơi hay sử dụng các phép đối cơ bản sau: chỉnh đối, tá tự đối, cú trung đối, tựu cú đối, lưu thủy đối, phiến đối, giao cổ đối, bất đối chi đối…Trước khi nói tới các phép đối khác, ta phải nói về phép chỉnh đối, trước, vì đây là phép đối ngẫu cơ bản nhất, người chơi thơ cần phải nắm thật vững mới có thể làm được tốt các phép đối khác. PHÉP CHỈNH ĐỐI Phép đối này là phép đối thông dụng nhất.Trong cuộc sống hàng ngày, các câu nói cửa miệng quen thuộc của người Việt Nam, cũng như trong ca dao, tục ngữ chứa đựng rất nhiều những câu đối ngẫu rất tề chỉnh, như:Đi ngược về xuôiLên rừng xuống biểnLên voi xuống chóĂn một bát cháo chạy ba quãng đồngLàng trên xóm dưới….Đó chính là những câu đối ngẫu rất thông dụng, rất hay.Yêu cầu của phép đối này là các cặp từ tương ứng của câu trên và câu dưới phải đối với nhau: động từ thì đối với động từ, danh từ chung thì đối với danh từ chung, danh từ riêng thì đối với danh từ riêng, tính từ đối với tính từ, từ láy với từ láy.“Tự buổi anh trao lời hẹn ướcLà ngày em nếm cảnh chờ trông”Từng cặp từ đối chan chát nhau về từ loại, như: TỰ đối với LÀ; BUỔI- NGÀY, ANH- EM, TRAO- NẾM… từng cặp từ đối rất chặt chẽCÁC LỖI THẤT ĐỐI THƯỜNG GẶP:VD1:Vì nhung nhớ kẻ xa muôn hướngĐể bẽ bàng duyên tủi vạn phầnỞ đây: nhung nhớ là động từ láy – bẽ bàng là tính từ láy = thất đốiVD2:Khắc khoải dâng buồn trong mắt MẹÂm thầm ngóng đợi dưới hàng treBuồn (tính từ) – đợi (động từ) => thất đốiVD3:Lưu luyến bài thơ trên bến vắngNgại ngần khúc nhạc giữa chiều hoangLưu luyến (động từ ghép đẳng lập: LƯU và LUYẾN)- ngại ngần (động từ láy) = thất đốiTuy nhiên, trong một bài thơ TNBC đường luật, Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn. Vì vậy, khi thấy một bài thơ không chỉnh đối, đừng vội đánh giá là thất đối, mà có thể rơi vào các trường hợp của các phép đối đặc biệt dưới đây: PHÉP KHOAN ĐỐIĐể cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.1/ Phép lưu thủy đối:Ví dụ:Có phải mưa hoài không thể đếnHay vì anh đã chẳng còn yêu Giá như thuở ấy không thề hẹnCó lẽ bây giờ chẳng nhớ thương Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng…, có phải …, bởi lẽ…, ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã…, hay là …, làm cho…, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên.2/ Phép tá tự đối:Ví dụ:Lũng thẳm rừng sâu bền ý địnhTrùng khơi sóng cả vững tay chèo Nếu xét theo nghĩa của từ trong bài thì: Ý định (danh từ)- tay (dt), chèo (đt) = không chỉnh đốiNhưng chiếu theo nghĩa khác của từng từ (không phải nghĩa trong bài)Ý (dt)- tay(dt)Định (ĐT) – Chèo (ĐT)=> Đối rất chặt với nhauVD:Mà bao tháng bão dâng lồng lộngĐể những ngày giông biết gượng ghì Xét theo nghĩa của từ trong bài thì: lồng lộng là tính từ láy, gượng, ghì là động từ, nhưng xét riêng từng từ thì lồng, lộng, gượng, ghì đều là động từ => đối rất chặt chẽ. 3/ Phép cú trung đối:Ví dụPhòng khuya bóng tẻ hoài mong nhớMộng vỡ tình bay vẫn ngóng chờNếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: phòng khuya đối với bóng tẻ; mộng vỡ đối với tình bay; đuôi câu trên (hoài mong nhớ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (vẫn ngóng chờ). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là phép cú trung đối.4/ Phép Tựu cú đối:Nghiêng thành đổ nước thời xuân trẻNhạt phấn phai hương buổi héo già Ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối (nhạt là tính từ - phai là động từ => không đối). Do đó chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.Cả 2 phép Cú trung đối và Tựu cú đối còn có tên chung là Đương đối.5/ Phép giao cổ đối:Nghe lòng dậy sóng đìu hiu ngõQuạnh quẽ dòng trôi kẻ ngóng đòĐây chính là phép Giao cổ đối: Nghe lòng dậy sóng đối chéo xuống với trôi kẻ ngóng đò, và quạnh quẽ dòng đối chéo lên với đìu hiu ngõ.6/ Phép bất đối chi đối:Bài DANG DỞ MỘNG, Hạ Băng có cặp luận như sau:“Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết?”"Em biết anh đi chẳng trở về"Câu trên trích trong bài “Đời vắng em rồi” _ Vũ Hoàng ChươngCâu dưới trích trong bài “Em biết anh đi chẳng trở về” _ Anh Bằng Cái hay của phép đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là tự vấn về duyên phận. Câu hai có đại ý là đã biết trước kết cục của cuộc tình rồi. Thật là quá hợp với nội dung. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với nhau.7/ Phép phiến đối (cách cú đối):Bạn dửng dưng hoài phai sắc mộng (câu 3)Dòng khơi sóng nổi bão giông đầy (câu 4)Anh biền biệt mãi sầu mây gió (câu 5)Ngõ quạnh sương choàng mắt lệ cay (câu 6)Là lấy câu thứ 3 đối với câu thứ 5, lấy câu thứ 4 đối với câu thứ 6. Đây là phép phiến đối (hay cách cú đối).Ai còn những phép đối nào khác, xin chia sẻ để mọi người học nhé. Thiet Duong (Sưu tầm và biên soạn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét